Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Cesc Fàbregas”
n Đã lùi lại sửa đổi của Hoanganhngo0711 (Thảo luận) quay về phiên bản cuối của 2402:800:6135:A9B:C4F2:58C0:ADAB:3F6F Thẻ: Lùi tất cả Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động Sửa đổi di động nâng cao |
n Sửa thể loại... (câu hỏi?) |
||
Dòng 391: | Dòng 391: | ||
{{DEFAULTSORT:Fabregas, Cesc}} |
{{DEFAULTSORT:Fabregas, Cesc}} |
||
[[Thể loại:Sinh 1987]] |
[[Thể loại:Sinh năm 1987]] |
||
[[Thể loại:Nhân vật còn sống]] |
[[Thể loại:Nhân vật còn sống]] |
||
[[Thể loại:Người Maresme]] |
[[Thể loại:Người Maresme]] |
Phiên bản lúc 18:11, ngày 13 tháng 12 năm 2021
Fàbregas chơi cho Chelsea năm 2015 | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Thông tin cá nhân | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tên đầy đủ | Francesc Fàbregas Soler[1] | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Chiều cao | 1,79 m (5 ft 10 in)[2] | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Vị trí | Tiền vệ, Tiền đạo | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Thông tin đội | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Đội hiện nay | Monaco | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Số áo | 4 | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Sự nghiệp cầu thủ trẻ | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Năm | Đội | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
1995–1997 | Mataró | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
1997–2003 | Barcelona | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
2003–2004 | Arsenal | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp* | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Năm | Đội | ST | (BT) | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
2003–2011 | Arsenal | 212 | (35) | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
2011–2014 | Barcelona | 96 | (28) | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
2014–2019 | Chelsea | 138 | (15) | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
2019– | Monaco | 54 | (3) | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Năm | Đội | ST | (BT) | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
2002–2003 | U-16 Tây Ban Nha | 8 | (1) | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
2003–2004 | U-17 Tây Ban Nha | 14 | (7) | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
2005 | U-20 Tây Ban Nha | 5 | (0) | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
2004–2005 | U-21 Tây Ban Nha | 12 | (2) | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
2006–2016 | Tây Ban Nha | 110 | (15) | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
2004– | Catalunya | 3 | (0) | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Thành tích huy chương
| |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia, chính xác tính đến 21 tháng 8 năm 2021 |
Francesc "Cesc" Fàbregas Soler (IPA: ['sɛsk 'faβɾəɣəs su'ɫeʁ̞]) (sinh ngày 4 tháng 5 năm 1987 ở Arenys de Mar, Catalunya, Tây Ban Nha[2][3]) là một cầu thủ bóng đá người Tây Ban Nha hiện đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Monaco tại Ligue 1 và từng chơi cho đội tuyển bóng đá quốc gia Tây Ban Nha. Fàbregas đã bắt đầu sự nghiệp của mình làm một học viên tại FC Barcelona nhưng anh đã được ký hợp đồng với Arsenal vào tháng 7 năm 2003. Anh không nổi bật lắm trong mùa giải đầu tiên cho "the Gunners", nhưng sau khi các tiền vệ trung tâm của đội bóng bị chấn thương trong mùa giải 2004–2005, thời gian chơi bóng của anh tăng lên. Ở Arsenal anh có cơ hội thể hiện tài năng ở vị trí tiền vệ cánh phải, một vị trí không phải là sở trường của mình. Và dĩ nhiên là từ khi có sự xuất hiện của Aleksandr Hleb, Cesc đã chơi ở vị trí ấy ít hơn. Trở về Barcelona năm 2011 với mức giá gần 30 triệu bảng, đã có những thông tin lo ngại cho một vị trí chính thức của Xavi đệ nhị khi anh sẽ phải cạnh trong cho suất hàng tiền vệ 3 người thi đấu rất ăn ý và không thể thay thế là Xavi - Iniesta - Busquets. Tuy nhiên, Pep Guardiola cho thấy ông có cái lý riêng khi một mực đòi đưa bằng được Cesc Fàbregas về sân Nou Camp. Pep Guardiola đẩy Fàbregas lên đá vị trí tiền đạo ảo (vị trí của chính Lionel Messi) hoặc tiền đạo chạy cánh và thành công ở mức chấp nhận. Fàbregas có thể nói thông thạo 4 thứ tiếng: tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha và tiếng Catalunya.
Anh đã phá vỡ nhiều kỷ lục của câu lạc bộ và bắt đầu nổi danh là một cầu thủ có năng khiếu kỹ thuật, có khả năng chuyển bóng xuất sắc và là một cầu thủ chính trong đội hình của Arsenal. Trong bóng đá quốc tế, sự nghiệp của cầu thủ đội tuyển Tây Ban Nha này đã bắt đầu từ lúc trẻ, tham gia đội U-17 trong giải Giải vô địch bóng đá U-17 thế giới 2003 ở Phần Lan. Nhờ thi đấu tốt, anh đã được chọn vào đội tuyển lớn tuổi hơn và chơi trong World Cup 2006. Năm 2006, Fàbregas đã ký hợp đồng lâu dài với thời gian 8 năm với Arsenal. Cùng năm đó, anh dành danh hiệu Golden Boy (giải thưởng dành cho cầu thủ dưới 21 tuổi xuất sắc nhất năm). Fàbregas cũng là một thành viên của đội tuyển Tây Ban Nha vô địch Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012. Trong trận chung kết World Cup 2010, anh là người đã kiến tạo cho Andrés Iniesta ghi bàn thắng duy nhất của trận đấu giúp Tây Ban Nha đăng quang.[4]
Sự nghiệp cầu thủ
Arsenal
Mùa giải 2005-2006
Vào đầu mùa giải này, đội trưởng của Arsenal lúc đó là Patrick Viera đã quyết định chuyển đến đầu quân cho Câu lạc bộ Juventus ở Ý, và người mà Arsene Wenger nhắm đến để lấp lại lỗ hổng này chính là Fàbregas (lúc đó mới 18 tuổi). Trong giai đoạn đầu mùa này, Arsenal đã chơi rất tệ so với những năm trước và họ sớm bị Chelsea bỏ xa trên bảng xếp hạng Premier League. Tất cả mọi người đều cho kết quả tồi tệ này là do Fàbregas không thể mặc vừa chiếc áo của Viera để lại mặc dù cậu đã có một bàn thắng trong trận tranh Community Shield với Chelsea. Mùa giải cứ theo thời gian mà trôi đi, Arsenal coi như đã bị loại khỏi cuộc đua tới ngôi vô địch Premier League khi họ bị Chelsea bỏ cách đến 20 điểm tính đến hết vòng 17. Mùa giải trắng tay đã rất gần, tuy nhiên bước ngoặt đã đến ở vòng 1/16 UEFA Champions League, khi Arsenal vượt qua Real Madrid ngay tại Santiago de Bernabeu, trong một trận đấu mà Fàbregas đã chơi cực hay và đóng góp to lớn vào chiến thắng đó. Tiến vào vòng tứ kết, Fàbregas có cơ hội gặp lại người đàn anh Viera khi đối thủ của Arsenal chính là Juventus. Thật bất ngờ khi các đồng đội trẻ trung của Fàbregas đã vượt qua Juventus già giơ của Viera một cách thuyết phục, riêng Fabregas đã ghi được một bàn trong chiến thắng 2-0 ở Highbury. Sau kết quả này, Arsenal đã tiến thẳng vào trận chung kết, mặc dù thất bại trước FC Barcelona nhưng mùa giải năm đó vẫn được xem là bước ngoặt của Fàbregas đối với sự nghiệp của anh. Cũng trong năm 2006 này, Fàbregas đã lần đầu được triệu tập vào đội tuyển quốc gia Tây Ban Nha dự FIFA World Cup 2006
Mùa giải 2006-2007
Trở lại từ đội tuyển quốc gia sau FIFA World Cup 2006, Fàbregas đã bước vào mùa giải mới một cách rất ấn tượng khi anh ghi 2 bàn vào lưới Dinamo Zagreb trong khuôn khổ vòng sơ loại UEFA Champions League. Nhưng mùa giải năm đó thực sự là một cơn ác mộng với Arsenal của Fàbregas khi họ một lần nữa bị loại khỏi cuộc đua tới ngôi vô địch một cách nhanh chóng. Không những vậy, đội bóng của Fàbregas còn lần lượt bị mất ba danh hiệu liên tiếp chỉ sau chưa đầy một tháng sau những trận thua trước Chelsea ở chung kết Cúp Liên đoàn Anh, Blackburn Rovers ở Cúp FA và PSV ở UEFA Champions League. Dù vậy, tài năng của Fàbregas vẫn được tôn vinh bằng các danh hiệu cá nhân như Cầu thủ xuất sắc nhất tháng một của English Premiership, có tên trong đội hình tiêu biểu của UEFA hay giải thưởng Bravo Awards dành cho cầu thủ trẻ xuất sắc nhất châu Âu...
Mùa giải 2007-2008
Sau hai mùa giải trắng tay liên tiếp, đội trưởng Thierry Henry đã thất vọng và rời bỏ đội bóng để đến với câu lạc bộ đã đánh bại Arsenal trong trận chung kết UEFA Champions League một năm trước đó là FC Barcelona. Trọng trách vực dậy Arsenal ngày càng đè nặng lên những người còn lại, trong đó có Fàbregas. Tuy nhiên chính bản thân anh cũng bị các câu lạc bộ lớn như Real Madrid, AC Milan, Barcelona,... mời chào bằng những hợp đồng hấp dẫn nhưng huấn luyện viên Arsene Wenger không chấp nhận điều này. Ông quyết giữ Fàbregas lại để tái thiết lại đội bóng. Không phụ lòng người thầy, Fàbregas đã chơi cực kì bùng nổ và đưa Arsenal liên tiếp dẫn đầu Premier League ở giai đoạn đầu mùa. Trên đấu trường UEFA Champions League, Arsenal cũng chơi rất ấn tượng khi huỷ diệt Slavia Prague tới 7-0 ở lượt trận thứ 3. Cuối năm 2007, Fàbregas suýt nữa đã lọt vào Top 3 Cầu thủ xuất sắc nhất thế giới và chỉ bị loại vào phút chót bởi Lionel Messi của FC Barcelona. Bước qua thời gian bùng nổ đó, Fàbregas và các đồng đội dần trở lại mặt đất. Sự xuống dốc bắt đầu xuất hiện bằng việc Fàbregas không có nổi một bàn thắng trong 16 trận liên tiếp ở Premier League và nó thể hiện rõ nhất từ cuối tháng 2 cho đến đầu tháng 4 năm 2008. Trong quãng thời gian này, Arsenal chỉ thắng được 1/7 trận tại Premier League và tuột xuống vị trí thứ 3. Ở đấu trường châu Âu, Fàbregas cũng không thể giúp Arsenal lọt vào trận đấu cuối cùng. Họ chỉ vào tới tứ kết rồi bị Liverpool loại với tổng tỉ số là 5-3 để rồi trắng tay mùa thứ ba liên tiếp.
Mùa giải 2008-2009
Trong hai trận đấu ở đầu mùa, Fàbregas đã phải vắng mặt vì một chấn thương nhưng sau đó anh đã trở lại trong chiến thắng 3-0 trước Newcastle United tại Premier League. Ở những trận đấu tiếp theo, Fàbregas đã phải cày ải liên tục cho cả đội tuyển quốc gia Tây Ban Nha lẫn cho cả Arsenal. Điều này đã làm Fàbregas tỏ ra quá tải, anh không còn chơi nổi bật như cùng kì mùa giải trước. Chính vì vậy Arsenal đã thể hiện một phong độ rất thất thường: sau mười bốn vòng, họ đã thua tới 5 trận trước những đối thủ làng nhàng như Fulham, Stoke City, Hull City,... Nội bộ Arsenal cũng trở nên lục đục sau trận hoà 4-4 trước Tottenham Hotspur. Tinh thần đội bóng sau đó xuống dốc thảm hại. Sau đó đội trưởng William Gallas đã công khai tiết lộ những chuyện không hay của nội bộ đội bóng trước báo giới và kết quả là anh này ngay lập tức bị tước băng đội trưởng của Arsenal. Ở trận đấu diễn ra cùng ngày (22/11/08), Arsenal thua tan tác trên sân của Manchester City với tỉ số 3-0 trong trận đấu mà Fàbregas bị treo giò vì nhận đủ năm thẻ vàng. Cuối cùng sau bao nhiêu lời đồn đại, Fàbregas đã chính thức được huấn luyện viên Arsene Wenger trao cho chiếc băng đội trưởng của Arsenal và anh lần đầu tiên dẫn đầu các pháo thủ bước ra khỏi đường hầm sân vận động trong trận đấu với Dinamo Kiev vào ngày 26/11/08.[5] Trận đấu đó đã kết thúc với chiến thắng 1-0 cho Arsenal. Fàbregas chính là người đã chuyền đường bóng quyết định cho Nicklas Bendtner ghi bàn duy nhất của trận đấu.
Thật không may cho Fàbregas, chỉ một tháng sau, anh đã dính một chấn thương nghiêm trọng sau khi va chạm với người đồng hương Xabi Alonso của Liverpool. Điều đó đồng nghĩa với việc Cesc đã phải nghỉ thi đấu bốn tháng.[6]
Mùa giải 2009-2010
Mùa giải này có thể coi là mùa giải sáng giá nhất của Fàbregas trong màu áo Arsenal khi anh ghi được 19 bàn thắng trong đó có 3 cú đúp vào lưới Everton, AZ Alkmaar và Aston Villa, cùng với đó là 19 pha kiến tạo thành bàn cho đồng đội. Tất cả đều được thực hiện trong 36 trận.
Mùa giải 2010-2011
Barcelona đã nhiều lần bày tỏ mong muốn được mua lại Cesc Fàbregas trong kỳ chuyển nhượng hè 2010, nhưng cuối cùng anh vẫn ở lại Arsenal. Trở lại Emirates sau FIFA World Cup 2010 với tư cách là nhà vô địch thế giới cùng đội tuyển bóng đá Tây Ban Nha, anh vẫn tiếp tục giữ chiếc băng đội trưởng của Arsenal. Đây là một mùa giải thất bại đối với Arsenal nói chung cũng như Fàbregas nói riêng, kéo dài 6 năm trắng tay của đội bóng thành London.
FC Barcelona
Mùa giải 2011-2012
Arsenal đã đồng ý bán Fàbregas cho Barcelona với giá chuyên nhượng 40 triệu euro, 30 triệu tiền mặt trả trước của Barca, 5 triệu sau khi Barca thi đấu thành công với đóng góp của Fàbregas và 5 triệu tiền thưởng của Fàbregas. Fàbregas chính thức trở lại Barcelona vào chủ nhật ngày 14/8. Fabregas có màn ra mắt Barcelona thành công ngoài mong đợi. Anh kiến tạo bàn thắng cho Lionel Messi trong trận tranh Siêu cúp Tây Ban Nha, giúp Barcelona hạ gục Real Madrid. Fàbregas đã hòa nhập rất nhanh với đồng đội và hứa hẹn sẽ trở thành một bản hợp đồng thành công của Barcelona. Cả mùa giải này, Fàbregas thi đấu tất cả 48 trận với 15 bàn thắng và 20 đường kiến tạo thành bàn (phần lớn ở vị trí tiền đạo).
Sau khi về anh đã lập 1 kỉ lục. Đó là sau 3 trận đấu ghi 3 bàn và đoạt 3 danh hiệu
Mùa giải 2012-2013
Fàbregas chấm dứt chuỗi hơn 8 tháng tịt ngòi bằng cú đúp vào lưới Sevilla. Sau đó anh tiếp tục ghi thêm 3 bàn trong tháng 10 tại La Liga, UEFA Champions League và Cúp Nhà Vua Tây Ban Nha (Copa del Rey). Fàbregas ghi 1 bàn vào lưới Levante trong chiến thắng 4-0 của Barcelona ngày 25 tháng 11. Anh lập hat-trick đầu tiên trong sự nghiệp trong trận đại thắng Real Mallorca với tỉ số 5-0 vào ngày 07 tháng 04 năm 2013. Mùa này, Fàbregas thi đấu cũng 48 trận, ghi được 14 bàn thắng và 12 đường chuyền thành bàn.
Chelsea
Ngày 12/06/2014, Cesc Fàbregas chính thức gia nhập Chelsea và mang áo số 4. Thời điểm này anh đang tập trung cùng đội tuyển Tây Ban Nha chuẩn bị cho World Cup 2014 diễn ra tại Brazil.
Ngày 05/01/2019, Cesc Fabregas đá trận cuối cùng cho Chelsea, gặp Nottingham Forest trong khuôn khổ cúp FA.
Ngày 12/01/2019, Cesc Fàbregas gia nhập Monaco với giá chuyển nhượng 10 triệu bảng và mang áo số 44.
Sự nghiệp quốc tế
Euro 2008
Ba mùa giải trắng tay liên tiếp cùng Arsenal làm cho Fabregas càng quyết tâm có một danh hiệu cùng đội tuyển. Quyết tâm này đã giúp anh được huấn luyện viên Luis Aragones tin tưởng giao cho vinh dự mang chiếc áo số mười của Tây Ban Nha. Tuy vậy "số mười" lại chỉ được sử dụng như một dự bị chiến lượt cho cặp tiền vệ trung tâm chính thức Marcos Senna và Xavi Hernandez. Dù vậy nhưng trong trận ra quân, Fabregas dù vào sân từ băng ghế dự bị nhưng chính anh là người ấn định chiến thắng 4-1 cho Tây Ban Nha trước đội tuyển Nga,trước đó anh còn có một đường chuyền đê David Villa lập công. Vượt qua vòng loại, tuyển Tây Ban Nha của Fabregas bước vào trận bán kết gặp đội tuyển thiên thanh Italia, trận đấu phải bước vào loạt "đấu súng" cân não và Fabregas đã vượt qua nó bằng cách thực hiện thành công quả penalty quyết định đưa Tây Ban Nha vào bán kết để tái ngộ Nga. Một lần nữa, Fabregas lại vào sân từ băng ghế dự bị và tiếp tục chứng tỏ mình là một con bài chiến thuật của Luis Aragones. Anh chơi cực kì xuất sắc và đã có 2 đường chuyền giúp Daniel Guiza và David Silva lập công giúp Tây Ban Nha một lần nữa thắng đậm với tỉ số 3-0. Chấn thương của David Villa đã giúp Fabregas có cơ hội đá chính trong trận chung kết gặp Đức.Hơn 60 phút có mặt trên sân, Fabregas đã góp công vào chiến thắng lịch sử 1-0 và giúp Tây Ban Nha có chức vô địch Châu Đầu tiên sau 44 năm chờ đợi. Fabregas đã được bầu chọn vào danh sách 23 cầu thủ tiêu biểu của giải đấu do UEFA bầu chọn.
Thống kê
Câu lạc bộ
Câu lạc bộ | Mùa giải | Vô địch quốc gia | Cúp quốc gia | Cúp liên đoàn | Châu Âu | Khác | Tổng cộng | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Hạng đấu | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | ||
Arsenal | 2003–04 | Premier League | 0 | 0 | 0 | 0 | 3 | 1 | 0 | 0 | 0 | 0 | 3 | 1 |
2004–05 | 33 | 2 | 6 | 0 | 1 | 0 | 5 | 1 | 1 | 0 | 46 | 3 | ||
2005–06 | 35 | 3 | 0 | 0 | 1 | 0 | 13 | 1 | 1 | 1 | 50 | 5 | ||
2006–07 | 38 | 2 | 2 | 0 | 4 | 0 | 10 | 2 | — | 54 | 4 | |||
2007–08 | 32 | 7 | 1 | 0 | 2 | 0 | 10 | 6 | — | 45 | 13 | |||
2008–09 | 22 | 3 | 1 | 0 | 0 | 0 | 10 | 0 | — | 33 | 3 | |||
2009–10 | 27 | 15 | 1 | 0 | 0 | 0 | 8 | 4 | — | 36 | 19 | |||
2010–11 | 25 | 3 | 3 | 2 | 3 | 1 | 5 | 3 | — | 36 | 9 | |||
Tổng cộng | 212 | 35 | 14 | 2 | 14 | 2 | 61 | 17 | 2 | 1 | 303 | 57 | ||
Barcelona | 2011–12 | La Liga | 28 | 9 | 8 | 3 | — | 10 | 2 | 2 | 1 | 48 | 15 | |
2012–13 | 32 | 11 | 7 | 2 | — | 8 | 1 | 1 | 0 | 48 | 14 | |||
2013–14 | 36 | 8 | 8 | 4 | — | 9 | 1 | 2 | 0 | 55 | 13 | |||
Tổng cộng | 96 | 28 | 23 | 9 | — | 27 | 4 | 5 | 1 | 151 | 42 | |||
Chelsea | 2014–15 | Premier League | 34 | 3 | 1 | 0 | 4 | 0 | 8 | 2 | — | 47 | 5 | |
2015–16 | 37 | 5 | 4 | 0 | 0 | 0 | 7 | 1 | 1 | 0 | 49 | 6 | ||
2016–17 | 29 | 5 | 6 | 0 | 2 | 2 | – | – | 37 | 7 | ||||
2017-18 | 32 | 2 | 4 | 0 | 4 | 0 | 8 | 1 | 1 | 0 | 49 | 3 | ||
2018–19 | 6 | 0 | 1 | 0 | 3 | 1 | 5[a] | 0 | 1[b] | 0 | 16 | 1 | ||
Tổng cộng | 138 | 15 | 16 | 0 | 13 | 3 | 28 | 4 | 3 | 0 | 198 | 22 | ||
Monaco | 2018–19 | Ligue 1 | 13 | 1 | 1 | 0 | 1 | 0 | — | — | 15 | 1 | ||
Tổng cộng sự nghiệp | 459 | 79 | 54 | 11 | 28 | 5 | 115 | 24 | 11 | 3 | 667 | 122 |
- ^ Ra sân ở UEFA Europa League
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênFACS
Đội tuyển quốc gia
- Tính đến ngày 21 tháng 6 năm 2016[10]
Tây Ban Nha | ||
---|---|---|
Năm | Trận | Bàn |
2006 | 14 | 0 |
2007 | 8 | 0 |
2008 | 15 | 1 |
2009 | 10 | 4 |
2010 | 10 | 1 |
2011 | 4 | 2 |
2012 | 13 | 3 |
2013 | 11 | 2 |
2014 | 8 | 0 |
2015 | 8 | 1 |
2016 | 9 | 2 |
Tổng cộng | 110 | 15 |
Bàn thắng quốc tế
- Score and Result lists Spain's goals first[10]
# | Ngày | Địa điểm | Đối thủ | Bàn thắng | Kết quả | Giải đấu |
---|---|---|---|---|---|---|
1. | 10 tháng 6 năm 2008 | Tivoli-Neu, Innsbruck, Áo | Nga | 4–1 | 4–1 | Euro 2008 |
2. | 14 tháng 6 năm 2009 | Sân vận động Royal Bafokeng, Phokeng, Nam Phi | New Zealand | 4–0 | 5–0 | Confed Cup 2009 |
3. | 9 tháng 9 năm 2009 | Sân vận động Romano, Mérida, Tây Ban Nha | Estonia | 1–0 | 3–0 | Vòng loại World Cup 2010 |
4. | 10 tháng 10 năm 2009 | Sân vận động Cộng hòa, Yerevan, Armenia | Armenia | 1–0 | 2–1 | Vòng loại World Cup 2010 |
5. | 18 tháng 9 năm 2009 | Ernst-Happel-Stadion, Vienna, Áo | Áo | 1–1 | 5–1 | Giao hữu |
6. | 8 tháng 6 năm 2010 | Sân vận động Nueva Condomina, Murcia, Tây Ban Nha | Ba Lan | 4–0 | 6–0 | Giao hữu |
7. | 2 tháng 9 năm 2011 | AFG Arena, St Gallen, Thụy Sĩ | Chile | 2–2 | 3–2 | Giao hữu |
8. | 3–2 | |||||
9. | 10 tháng 6 năm 2012 | PGE Arena Gdańsk, Gdańsk, Ba Lan | Ý | 1–1 | 1–1 | Euro 2012 |
10. | 14 tháng 6 năm 2012 | PGE Arena Gdańsk, Gdańsk, Ba Lan | Cộng hòa Ireland | 4–0 | 4–0 | Euro 2012 |
11. | 15 tháng 8 năm 2012 | Sân vận động Juan Ramón Loubriel, Bayamón, Puerto Rico | Puerto Rico | 2–0 | 2–1 | Giao hữu |
12. | 6 tháng 2 năm 2013 | Sân vận động Quốc tế Khalifa, Doha, Qatar | Uruguay | 1–0 | 3–1 | Giao hữu |
13. | 8 tháng 6 năm 2013 | Sân vận động Sun Life, Miami Gardens, Hoa Kỳ | Haiti | 2–0 | 2–1 | Giao hữu |
14. | 11 tháng 6 năm 2015 | Sân vận động Reino de León, León, Tây Ban Nha | Costa Rica | 2–1 | 2–1 | Giao hữu |
15. | 1 tháng 6 năm 2016 | Red Bull Arena, Salzburg, Áo | Hàn Quốc | 2–0 | 6–1 | Giao hữu |
Danh hiệu
Câu lạc bộ
Arsenal
- FA Cup: 2004–05
- FA Community Shield: 2004
- Á quân UEFA Champions League: 2005–06
Barcelona
- La Liga: 2012–13
- Copa del Rey: 2011–12
- Supercopa de España: 2011, 2013
- UEFA Super Cup: 2011
- FIFA Club World Cup: 2011
Chelsea
- Premier League: 2014–15, 2016–17
- EFL Cup: 2014–15
Quốc tế
- FIFA World Cup: 2010
- UEFA Euro: 2008, 2012
- Á quân FIFA Confederations Cup: 2013
- Á quân FIFA U-17 World Championship: 2003
- Á quân UEFA European Under-17 Football Championship: 2004
Cá nhân
- U-17 FIFA chiếc giày vàng: 2002
- U-17 FIFA quả bóng vàng: 2003
- UEFA U-17 European Championship Golden Player: 2004
- Giải thưởng Bravo dành cho cầu thủ trẻ xuất sắc nhất châu Âu: 2010
- UEFA Team of the Year: 2006
- Cầu thủ xuất sắc trong tháng của FA Premier league: tháng 1 năm 2007, tháng 9 năm 2007
- Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất mùa giải của FA Premier league: 2008
- PFA Team of the Year: 2008
- UEFA Team of the Tournament: 2008
Chú thích
- ^ a b “Francesc Fàbregas i Soler - Spain”. WC2010Virgin. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2010.
- ^ a b Francesc Fabregas profile, soccernet.espn.go.com, truy cập 25 tháng 7 năm 2007.
- ^ PLAYER PROFILE Lưu trữ 2007-11-23 tại Wayback Machine, arsenal.com, truy cập 22 tháng 5 2007.
- ^ Hà Lan - Tây Ban Nha 0-1: Iniesta đưa "vua" châu Âu lên đỉnh thế giới Thể thao & Văn hóa
- ^ [1] Lưu trữ 2008-12-04 tại Wayback Machine, www.Arsenal.com, truy cập 24 tháng 11 năm 2008.
- ^ .Trở lại sau bốn tháng chấn thương Fabregas thi đấu cực kì ấn tương. Tới cuối mùa giải đội trưởng của Arsenal là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất giúp đội bóng lọt vào tứ kết cúp C1. Injured Fabregas ruled out for 3-4 months, soccernet.espn.go.com, 23 tháng 12 năm 2008, truy cập 24 tháng 12 năm 2008.
- ^ Francesc Fabregas history, ESPNsoccernet, accessed ngày 18 tháng 12 năm 2007.
- ^ “Cesc Fàbregas Premier League Player Profile”. Premier League official website. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2015.
- ^ Cesc Fàbregas tại Soccerway
- ^ a b Cesc Fàbregas tại National-Football-Teams.com
Liên kết ngoài
- Website chính thức
- Thông tin tại Chelsea F.C.
- Cesc Fàbregas tại BDFutbol
- Cesc Fàbregas tại Soccerbase
- Cesc Fàbregas tại National-Football-Teams.com
- Cesc Fàbregas – Thành tích thi đấu FIFA
- Cesc Fàbregas – Thành tích thi đấu tại UEFA
- Sinh năm 1987
- Nhân vật còn sống
- Người Maresme
- Cầu thủ bóng đá Tây Ban Nha
- Cầu thủ bóng đá Catalunya
- Tiền vệ bóng đá
- Cầu thủ bóng đá Premier League
- Cầu thủ bóng đá La Liga
- Cầu thủ bóng đá Ligue 1
- Cầu thủ bóng đá Arsenal F.C.
- Cầu thủ bóng đá Barcelona
- Cầu thủ bóng đá Chelsea F.C.
- Cầu thủ bóng đá AS Monaco
- Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Tây Ban Nha
- Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Tây Ban Nha
- Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Tây Ban Nha
- Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 2006
- Cầu thủ Giải vô địch bóng đá châu Âu 2008
- Cầu thủ Cúp Liên đoàn các châu lục 2009
- Cầu thủ Giải vô địch bóng đá châu Âu 2012
- Cầu thủ Cúp Liên đoàn các châu lục 2013
- Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 2014
- Cầu thủ vô địch Giải vô địch bóng đá châu Âu
- Cầu thủ vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới
- Cầu thủ bóng đá Tây Ban Nha ở nước ngoài
- Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Anh
- Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Monaco
- Vận động viên Tây Ban Nha ở Anh
- Vận động viên Tây Ban Nha ở Monaco
- Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Catalunya
- FIFA Century Club
- Cầu thủ Giải vô địch bóng đá châu Âu 2016
- Cầu thủ bóng đá CE Mataró
- Cầu thủ bóng đá trẻ FC Barcelona
- Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 2010